Từ những kinh nghiệm hữu ích mà Singapore gặt hái được trong chiến lược phát triển giáo dục, Jin Chwen Ong chia sẻ về những thách thức của giáo dục Việt Nam và gợi mở một số định hướng phát triển.
Xã hội có cần, trường mới đào tạo
PV: Một số trường đại học ở Singapore đã được xếp vào top 100 của thế giới, anh có thể chia sẻ những kinh nghiệm nào để lọt vào bảng xếp hạng danh giá này?
Singapore có 2 trường đại học công lập lọt vào top 100 trường đại học tốt nhất trên thế giới là Trường đại học Quốc gia Singapore xếp thứ 12 và Trường đại học Công nghệ Nanyang xếp thứ 61. Để vào được bảng top này không phải chỉ một vài năm mà là nỗ lực của một quá trình lâu dài. Phát triển giáo dục là một chiến lược mang tính dài hạn, mà để đạt được chất lượng toàn cầu có khi mất cả trăm năm.
Một trường đại học được cả thế giới công nhận về “tính chuẩn” rõ ràng phải hội đủ các yếu tố như chất lượng giáo viên, hệ thống cơ sở vật chất, ngành học phù hợp nhu cầu xã hội, sinh viên tốt nghiệp có khả năng làm việc tốt ở các công ty.
Ở mỗi giai đoạn, Singapore có một chiến lược phát triển giáo dục nhất định, nhưng giai đoạn nào thì cũng bám lấy tiêu chí nhu cầu của xã hội đối với đào tạo. Xã hội đang cần người làm công việc gì thì trường học mới đào tạo ngành nghề đó. Đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường thì trường đó cũng sẽ tạo được thế mạnh cũng như thương hiệu cho riêng mình. Không có chuyện đào tạo không gắn kết với xã hội, lại càng không có chuyện sinh viên được đào tạo ra mà không biết mình sẽ làm nghề gì, ở đâu.
PV: Theo như anh nói thì nhiều ngành ở Singapore đang rất “hot” vì cơ hội tìm được việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp rất cao. Vậy thì việc xin mở ngành hay thành lập một trường đại học ở Singapore có dễ dàng không?
Các tiêu chí để mở ngành hay thành lập trường được Bộ Giáo dục Sin quản lý chặt chẽ, thậm chí là khắt khe. Ví như muốn mở ngành đào tạo bác sĩ, chắc chắn phải có đủ số lượng giáo sư giảng dạy trong ngành y tế, có đủ cơ sở vật chất cho sinh viên nghiên cứu mới được mở.
Thế nhưng, tôi khá ngạc nhiên khi nhiều trường đại học ở Việt Nam được thành lập rồi mới bắt đầu tuyển dụng giáo viên, xây dựng cơ sở vật chất, thậm chí tổ chức tuyển sinh và đào tạo luôn khi năng lực đào tạo chưa cho phép. Quy trình này là một quy trình ngược. Nó giống như một công ty đăng ký thầu một dự án, xin được trúng thầu rồi mới tuyển nhân viên, mới mua máy móc về làm trong khi lẽ ra anh phải có đủ nhân viên, máy móc mới được phép đăng ký thầu dự án.
Tôi thấy Bộ Giáo dục - Đào tạo Việt Nam khá tham vọng khi đề ra tiêu chí xây dựng 600 trường đại học, cao đẳng trong cả nước đến năm 2020. Tính ra 1 tháng Việt Nam có thêm 1 trường đại học, cao đẳng được thành lập. So sánh với Singapore, trong suốt 40 năm qua chúng tôi chỉ mới có 3 trường đại học công lập. 40 năm trước chúng tôi chỉ có 2 trường đại học công lập, đến năm 2000 có thêm 1 trường nhưng để nó ra đời có thời gian chuẩn bị hơn 30 năm. Năm 2008 có thêm 1 trường đại học công lập là Trường nghệ thuật Singapore và cũng mất hơn 9 năm chuẩn bị.
Việc ra đời quá nhiều trường đại học nhưng lại chưa có sự chuẩn bị tốt về các mặt, đặc biệt là nhu cầu xã hội chưa được tính toán kỹ càng sẽ khiến mục tiêu đào tạo của giáo dục rất dễ bị chệch hướng.
Không làm nghề báo sao dạy được báo?
PV: Khó khăn lớn nhất trong việc mở ngành, thành lập một trường đại học là có được một đội ngũ giáo viên chuẩn hóa. Ông có thể chia sẻ kinh nghiệm xây dựng đội ngũ giáo viên ở Sin ?
Theo tôi biết thì những người trở thành giáo viên ở Singapore phải là những người có nhiều kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực đó, đặc biệt phải có nhiều nghiệm sống, làm việc và học tập ở nước ngoài. Chúng tôi luôn ưu tiên cho những người có kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp để tuyển dụng chứ không phải ưu tiên sinh viên tốt nghiệp xuất sắc rồi giữ lại trường như cách làm ở Việt Nam. Những sinh viên cho dù có bằng ưu, nhưng sẽ không truyền thụ được kiến thức khi họ chưa kinh qua công việc, chưa từng trải trong lĩnh vực mà họ giảng dạy.
Ví như muốn giảng dạy báo chí, rõ ràng giáo viên phải đã hoặc đang công tác tại một tòa soạn báo chí, có kinh nghiệm nghề nghiệp trong phỏng vấn, thu thập thông tin, viết bài. Làm sao giảng dạy về nghề báo khi họ chưa bao giờ viết báo. Thế mà ở Việt Nam lại đang là chuyện “bình thường”. Thử hỏi sinh viên học được gì ở giáo viên nếu như không ngoài những kiến thức đã có sẵn trong sách vở, giáo trình ?
PV: Trở lại với vấn đề đào tạo gắn kết xã hội, trách nhiệm của các trường đại học đối với việc tìm việc cho sinh viên mình sau khi tốt nghiệp ?
Bản thân ngành học của trường khi mở là được xét trên nhu cầu thực tế của xã hội, vì vậy sinh viên tốt nghiệp rất dễ dàng tìm được việc làm. Mỗi trường đại học của Singapore, dù trường công hay trường tư, luôn có một trung tâm tư vấn việc làm và giúp đỡ sinh viên thực tập tại các công ty. Bản thân các trường đại học có sự gắn bó chặt chẽ với các doanh nghiệp, công ty liên quan đến ngành nghề đào tạo. Bên cạnh đó các trường thường xuyên có các hội thảo về việc làm để sinh viên tiếp cận dễ dàng hơn.
Trong khi đó, một số trường đại học ở Việt Nam lại không xem trách nhiệm tìm kiếm việc làm cho sinh viên như là một yêu cầu bắt buộc trong sứ mạng đào tạo của mình. Rất ít trường có thống kê sinh viên trường mình tỷ lệ tìm được việc làm bao nhiều phần trăm để có điều chỉnh hợp lý trong mục tiêu đào tạo. Đào tạo là của trường, tìm kiếm việc làm là của sinh viên, một khi hai khái niệm này còn được đặt riêng lẻ, rời rạc thì trường đại học đó còn lâu mới có thể hội nhập, chứ chưa nói là đủ điều kiện để xếp hạng khu vực.
Mong rằng các cơ quan chức năng sẽ có nhiều động thái tích cực hơn trong chiến lược phát triển giáo dục của mình. Nếu có tinh thần cầu thị, tôi nghĩ Việt Nam nền cần có nhiều chuyên gia hơn nữa đến Singapore hoặc các nước có nền giáo dục phát triển để tham quan, học hỏi kinh nghiệm thay vì cứ phải mày mò tìm lối ra như hiện nay.
Xin cảm ơn anh!
Sông Lam
(theo Dân Trí)