PV: Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT” đặt mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam sẽ có 1 triệu chuyên gia CNTT-TT. Ông đánh giá thế nào khi có ý kiến cho rằng, chất lượng nguồn nhân lực mới là vấn đề lớn có tính quyết định?
PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng: Căn cứ theo số liệu thống kê của Bộ TT&TT và Bộ GD&ĐT, tính toán cơ học có thể thấy đến năm 2020 con số 1 triệu nhân lực ngành CNTT là hoàn toàn đáp ứng được. Số liệu thống kê của Bộ GD&ĐT cho thấy, những năm qua số lượng các cơ sở đào tạo chính quy về CNTT đã tăng đáng kể: năm 1995 mới chỉ có 7 khoa CNTT trọng điểm, thì đến năm 2010 đã có tới 133 trường ĐH, 153 trường CĐ, 351 trường TCCN có đào tạo CNTT-Tin học. Chỉ tiêu tuyển sinh các ngành liên quan đến CNTT-TT hiện nay khoảng 60.000 sinh viên/năm và trung bình chỉ tiêu năm sau thường cao hơn năm trước khoảng 6-8%.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là chất lượng nguồn nhân lực CNTT mới là vấn đề lớn, có tính quyết định, chứ không phải là số lượng. Nhưng một thời gian dài, công tác đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nhân lực CNTT-TT của chúng ta lại chỉ chạy theo số lượng, chưa chú trọng đến chất lượng. Đặc biệt, trong giai đoạn 2005-2010, số lượng các cơ sở đào tạo ĐH tăng đáng kể, đã đào tạo lượng lớn sinh viên CNTT, đưa tới tình trạng nguồn nhân lực CNTT Việt Nam thừa cục bộ, nhưng lại thiếu chất lượng.
Theo tôi, nếu thời gian tới chúng ta không có những quyết sách để thay đổi mạnh mẽ chất lượng đào tạo nhân lực, không nhận thức được giai đoạn 2010-2015 là giai đoạn rất quan trọng với các trường ĐH để có thể tạo các đột phá trong quản lý và thực hiện đào tạo, dẫn tới đột phá trong chất lượng đào tạo thì chắc chắn các mục tiêu của Đề án sẽ không thể nào đạt được. Càng nguy hiểm hơn nếu chúng ta chạy theo số lượng 1 triệu nhân lực, mà bỏ qua chất lượng nhân lực đào tạo được. Tôi tin rằng, với cơ chế cạnh tranh lành mạnh và với các định hướng, giải pháp đúng đắn từ các cấp quản lý, các trường, cả chất lượng và số lượng nhân lực CNTT-TT sẽ tăng lên ở những trường tốt, ngược lại sẽ giảm đi và thậm chí là dẫn tới phải đóng cửa, loại bỏ các trường đào tạo kém chất lượng.
PV: Cũng trong bản Đề án này có đưa ra mục tiêu thời gian tới sẽ phát triển nguồn nhân lực CNTT-TT Việt Nam đạt chuẩn quốc tế. Vậy theo ông nhân lực CNTT-TT được coi là đạt chuẩn quốc tế thì cần phải đáp ứng những tiêu chí gì?
PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng: Tôi cho rằng, tiêu chí để đánh giá nhân lực nói chung dựa trên kiến thức nền tảng, kỹ năng công nghệ, ngoại ngữ và kiến thức, kỹ năng mềm. Nhân lực CNTT-TT đạt chuẩn quốc tế là nguồn nhân lực hoàn toàn có đầy đủ khả năng thực hiện các dự án quốc tế. Ở đây, theo tôi thì cần xem xét vấn đề dưới 2 góc độ. Thứ nhất là các SV sau khi tốt nghiệp, tìm được việc làm trong DN, đáp ứng được các đòi hỏi nghề nghiệp của thị trường.
Tuy nhiên, sau thời gian làm việc khoảng 1-2 năm, người lao động đó sẽ phát triển như thế nào, có trở thành các chuyên gia giỏi hay không, có trình độ ngang bằng với các chuyên gia trong khu vực và trên thế giới hay không lại phụ thuộc vào cơ hội làm việc và quá trình “tự đào tạo lại khi làm việc” ngay trong chính các DN. Với trường hợp này, nhân lực CNTT-TT đạt chuẩn quốc tế có được là dựa trên quá trình đào tạo tại các trường ĐH (4 năm) và cả quá trình tái đào tạo tại DN (1-2 năm). Thứ hai cần xem xét đến là các sinh viên sau khi tốt nghiệp, tìm được các học bổng sau ĐH ở các nước phát triển hơn VN, sau một vài năm học tập, các em tìm được việc làm tại các công ty nước ngoài, công ty liên doanh hoặc các công ty VN.
Như vậy, để đánh giá nhân lực CNTT-TT đạt chuẩn quốc tế, cũng như để có thể “định lượng” việc hiện nay có bao nhiêu trường đáp ứng được các tiêu chí đó, tôi cho rằng trước hết cần phải xây dựng được các chuẩn về kiến thức, chuẩn kỹ năng, chuẩn ngoại ngữ và chuẩn kỹ năng làm việc/nghiên cứu. Để làm được việc này, cần có sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý, sự tham gia của các trường, các DN sử dụng lao động và cũng cần tham khảo mô hình, kinh nghiệm thế giới. Ngoài ra, chúng ta còn cần có tổ chức kiểm định chất lượng độc lập để điều tra đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực được đào tạo ra từ các cơ sở đào tạo; đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực sau một thời gian nhất định làm việc, tức là khả năng phát triển của các kỹ sư, cử nhân sau khi đi làm tại các DN CNTT-TT VN. Từ đó, mới có được những đánh giá chi tiết, chính xác về chất lượng nguồn nhân lực.
PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng, Viện trưởng Viện CNTT-TT, ĐH Bách khoa Hà Nội
|
|
PV: Theo quan điểm của ông, để các mục tiêu về nguồn nhân lực CNTT-TT của Đề án có thể “cán đích” thì cần phải làm gì?
PGS.TS Huỳnh Quyết Thắng: Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực CNTT-TT Việt Nam hiện nay vẫn rất lớn, đòi hỏi phải có thay đổi mạnh cả về “chất” lẫn “lượng”. Sau 15 năm phát triển (1995-2009), hiện chúng ta đã có một số DN CNTT có số lượng nhân lực từ 1000-3000 người và khoảng hơn 10 DN có số lượng nhân lực từ 300-900 người… Từ nay đến năm 2015 là giai đoạn nền kinh tế thế giới hồi phục và phát triển, vì thế nền kinh tế VN sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong thời gian tới, tạo cơ sở cho các doanh nghiệp CNTT phát triển các thị trường và đòi hỏi nhu cầu lớn hơn về nguồn nhân lực. Từ thực tế đó, tôi cho rằng có một số việc chúng ta cần phải chú trọng triển khai trong giai đoạn tới. Cụ thể, về phía các trường ĐH, cần phải thay đổi quan điểm đào tạo. Phải thấy rằng, nguồn nhân lực CNTT-TT được đào tạo cần có sự thay đổi mạnh về chất lượng đào tạo (kiến thức nền tảng, kỹ năng công nghệ, ngoại ngữ, kỹ năng mềm làm việc) và cả về định hướng đào tạo, tức là chú trọng đào tạo chuyên sâu theo các lĩnh vực: phần mềm, nội dung số, phần cứng.
Mặt khác, các cơ sở đào tạo cũng cần đẩy mạnh các hình thức xã hội hóa, tăng cường hợp tác để thu hút các nguồn lực tài chính phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu. Bởi lẽ, ngành CNTT có đặc thù là công nghệ phát triển rất nhanh, đòi hỏi người dạy, người học phải luôn tự học, cập nhật kiến thức để có thể dạy và học tốt. Đào tạo CNTT đòi hỏi có nhiều phòng thực hành; giảng viên cần nhiều tài liệu, giáo trình và thời gian để tự hoàn thiện kiến thức, kỹ năng. Nhưng có một thực tế là hiện nay cơ chế tài chính để trang trải kinh phí, chi phí cho các phòng thí nghiệm, phòng thực hành, cơ chế trả lương cho giảng viên trong các trường ĐH công lập vẫn bị ràng buộc nhiều bởi cơ chế tài chính và cơ chế học phí, dẫn tới khả năng “tái đầu tư” cho “người dạy”, cho “việc dạy” còn nhiều bất cập, ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo.
Vì thế, hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo nhân lực CNTT sẽ là giải pháp hiệu quả để thu hút nguồn lực tài chính, đầu tư dài hạn cho các cơ sở đào tạo, thực hiện chính sách cho vay ưu đãi để trang trải học phí đối với sinh viên nghèo. Các nhà đầu tư sẽ là những người môi giới, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các DN. Mô hình hợp tác này cũng giải quyết hiệu quả vấn đề nghiên cứu định hướng nhu cầu thị trường nguồn lực, xây dựng các định hướng đào tạo phù hợp cho các cơ sở đào tạo.
Còn về phía cơ quan quản lý nhà nước, theo tôi một việc hết sức quan trọng là cần xây dựng các chính sách trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường, để các trường tự thực hiện và tự chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo của trường mình. Ví dụ như thực hiện tuyển sinh đầu vào cho ngành CNTT-TT dựa trên điểm thi Toán, Lý và Ngoại ngữ. Đồng thời, cần xây dựng các cơ chế giám sát đánh giá chất lượng và quá trình đào tạo, quản lý thực hiện ở các trường; chú trọng xây dựng các chính sách hỗ trợ các DN trong việc tái đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trong xuất khẩu nguồn nhân lực, thực hiện các dự án quốc tế, mở các chi nhánh và phát triển thị trường ở nước ngoài; xây dựng các chính sách quảng bá, tuyên truyền, nâng cao nhận thức ngành nghề và định hướng nghề nghiệp phù hợp và đúng đắn cho học sinh phổ thông; xây dựng các chính sách cho vay ưu đãi với các sinh viên nghèo, học giỏi...
PV: Xin cảm ơn ông!
Ngọc Minh
(theo báo Bưu Điện Việt Nam)